Lịch sử Người Pháp gốc Việt

Trước 1945

Hoàng tử Cảnh tại Pháp; tranh của Maupérin (1787) Phan Thanh Giản, hình chụp tại Paris khi đi sứ năm 1863.

Một nhân vật người Việt đặt chân lên đất Pháp vào cuối thế kỷ 18 mà lịch sử nhắc đến nhiều là Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh khi theo Giám mục Bá Đa Lộc cầm đầu phái đoàn sang Pháp cầu viện. Cậu bé 3 tuổi này chỉ ở lại Pháp vài năm rồi lại hồi hương nhưng để lại ấn tượng tốt trong dư luận Pháp.

Gần 100 năm sau người Việt mới bắt đầu sang định cư tại Pháp. Sứ bộ Phan Thanh Giản khi trong chuyến Tây du để chuộc lại Nam Kỳ đã ghi nhận sự có mặt của người Việt tại Pháp.[4] Tuy nhiên con số đó chỉ là những người có quan hệ gia đình nên phải sang Pháp.

Mãi đến đầu thế kỷ 20 cộng đồng người Việt mới tăng lên con số đáng kể. Nguyên nhân chính là tình hình khó khăn tại Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt buộc chính phủ Pháp phải tìm tuyển nhân công để sung vào các xưởng sản xuất trong khi dân Pháp chính gốc phải dồn vào phục vụ chiến cuộc. Cùng lúc đó Pháp cũng mở cuộc tổng động viên để bổ sung quân đội. Lệnh tuyển lính bản xứ tại Đông Dương thuộc Pháp được ban hành vào Tháng Mười Một, 1915. Sang Tháng Giêng, 1916, triều đình Huế cũng có dụ ban thưởng 80 đồng bạc Đông Dương cho những ai nhập ngũ. Đến năm 1918 khi có lệnh đình chiến thì đã có 48.922 lính gốc Đông Dương (Việt) trong quân ngũ tại Âu châu cùng Bắc Phi và 51.000 thợ (ouvriers non spécialsés, viết tắt là ONS; tiếng Việt gọi là "lính thợ" hay "công binh") gốc Việt trong các công xưởng của Pháp.[5] Trong số đó có 1.548 người tử vong.[6] Số người Việt lưu trú tại Pháp sau giảm nhiều vì đa số chọn hồi hương. Số ở lại chỉ khoảng 3.000 người. Có người ở lại vì kết hôn với người Pháp nhưng phần lớn vì lý do giáo dục và công việc.

“Nhóm người An Nam yêu nước” được Nguyễn Ái Quốc thành lập vào tháng 6/1919 nhằm kêu gọi sự đoàn kết của Cộng đồng người Việt ở Pháp cũng như ra tăng áp lực lên chính phủ thực dân trao thêm quyền lợi cho người Việt trong nước. Đây là tiền thân của Hội người Việt Nam tại Pháp (UGVF) hiện nay[7].

Vì tình hình khó khăn kinh tế ở Pháp vào thập niên 1920 ảnh hưởng đến giới lao động, một số hội đoàn của người Việt xuất hiện với mục đích tương tế, tương trợ như Hội đồng bào Thân ái (La Fraternité des compatriotes), Association Amicale des Travailleurs Indochinois, Association de Laqueurs, Association des Cuisiniers Indochinois, và Association Mutuelle des Travailleurs. Đến năm 1928 thì có Comité de Défense des Travailleurs Annamites ra đời để bảo vệ quyền lợi của công nhân gốc Việt.

Con số thợ thuyền, sinh viên, học sinh đó là hạt mầm của cộng đồng người Pháp gốc Việt.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp bùng nổ thì chính quốc Pháp lại có lệnh tuyển mộ người Việt sang làm lao công thuộc địa (viết tắt tiếng Pháp MOI: main-d'oeuvre indigène), nhưng lần này với dạng cưỡng bách. Năm 1939 đã có 93.000 người, cả lính thợ lẫn lính chiến, bị đưa sang Pháp sung vào quân ngũ hỗ trợ chính quốc theo "Kế hoạch Mandel".[8] Riêng ở Baumettes khoảng 20.000 người bị giam giữ để phục dịch trong các công xưởng với mức lương 1/10 lính Pháp. Một số đã định cư ở Pháp, nhất là vùng Camargue (tỉnh Bouches-du-Rhône), mở mang nghề trồng lúa[9] và làm muối.[10]

Nghề trồng lúa ở Provence là do lính thợ người Việt sang khai khẩn vùng đồng lầy ở Camargue vào thập niên 1940, mở đầu cho kỹ thuật trồng lúa tại Pháp.[11]

1945-1975

Số người Việt sang Pháp định cư tăng thêm vào những thập niên 1940-1960 sau Chiến tranh thế giới thứ hai và cuộc chiến Đông Dương tiếp theo. Khi chính thể bảo hộ của Pháp trên ba xứ Việt Nam, Campuchia, Lào cáo chung, đại đa số Pháp kiều, trong đó kể cả những người Việt mang quốc tịch Pháp đã rời bỏ Đông Dương để hồi hương về Pháp.[12] Sau 1954, khoảng 50.000 người mang quốc tịch Pháp tại Đông Dương đã hồi hương,[13] trong đó có 12.000 người bản xứ.[14]

Chính phủ Pháp đưa một số về Noyant-d’Allier, một thị trấn nhỏ thuộc Allier, Auvergne, có truyền thống khai mỏ than nhưng vào thập niên 1950 đã bị bỏ hoang. Bốn trăm gia đình, tổng cộng khoảng 2.000 người được đưa đến đây lập nghiệp.[15] Số khác định cư ở Sainte-Livrade-sur-Lot (1600 người),[16] thuộc Lot-et-Garonne, Aquitaine gần Bordeaux miền tây-nam nước Pháp. Nơi cư trú mang tên "Trung tâm tiếp quản Những người Pháp Đông dương" (tiếng Pháp: Centre d'Accueil des Français d'Indochine, CAFI) Nơi đó có cấu trúc giống như một ngôi làng truyền thống ở Việt Nam với đình, chùa.[17] Trại CAFI ở Sainte Livrade tồn tại đến năm 2008 thì chính quyền địa phương có phá đi để hoạch định lại.[18] Phần lớn đã được tân trang riêng có sáu căn là giữ nguyên dùng làm di tích cuộc di cư và để lưu trữ các hiện vật lịch sử ghi dấu.[16] Ở Noyant-d'Allier thì nay còn ngôi chùa Pháp Vương. Giữa thị trấn là pho tượng Phật, sang thế kỷ 21 là thắng tích du lịch ở địa phương.[19]

Nhóm ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòaMặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Bài viết (hoặc đoạn) này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập. Có thể có thảo luận liên quan tại trang thảo luận. Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này.

Từ năm 1945 đến 1975, nhiều trí thức, nhân sĩ đã về tham gia kháng chiến và xây dựng đất nước, trực tiếp cùng nhân dân cả nước trải qua khó khăn. Còn nhiều người khác tiếp tục sứ mệnh của mình nơi xa xứ, tổ chức các hoạt động đóng góp tiền bạc, thuốc men, dụng cụ y học từ các nguồn quốc tế, đóng góp về kinh tế, khoa học kỹ thuật, phương tiện và kiến thức y học về đất nước. Ngoài những hoạt động chính trị, tài chính, phong trào còn đóng góp rất nhiều thông qua hình thức văn hóa-văn nghệ. Để tổ chức được những hoạt động văn hóa-xã hội Việt Nam ở nước ngoài thật sự là điều không hề dễ dàng, nhất là mỗi sự kiện đều mang một ý nghĩa chính trị đặc biệt chuyển tải hình ảnh-tinh thần-con người-mong muốn Việt Nam đến với cộng đồng Việt Nam ở Pháp và với công chúng quốc tế, như: các Trại hè từ năm 1959 đến 1973 để kỷ niệm Hiệp định Genève ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào trong nước, những lần tham gia Đại hội Liên hoan văn hóa Thế giới do UNEF tổ chức, đi biểu diễn ở Ý, Thụy Sĩ, Hà Lan, tham gia các buổi mít-tinh cùng Phái đoàn Hội nghị Paris, tham gia Lễ hội Báo Nhân đạo, các buổi văn nghệ Tết... cũng là dịp để thu hút cảm tình viên cho Việt Nam và đào tạo cán bộ cho phong trào. Một sự kiện lịch sử quan trọng không thể không nhắc đến là Hiệp định Paris năm 1973 chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đây là một trong những sự kiện góp phần vào di sản và bề dày lịch sử đặc trưng độc đáo và độc nhất của cộng đồng người Việt Nam tại Pháp nói chung và Hội người Việt Nam tại Pháp nói riêng. Trong suốt quá trình hoạt động của hai phái đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1968-1973, bà con Việt kiều tại Pháp đã chào đón, hỗ trợ, giúp đỡ, bảo vệ và ủng hộ hết mình cho hai phái đoàn (VNDCCH và MTDTGPMNVN) hoàn thành nhiệm vụ. Khi Hiệp định Paris được ký kết, Hội Liên hiệp Việt kiều tại Pháp – tiền thân của Hội người Việt Nam tại Pháp – năm ấy đã tổ chức hàng loạt sự kiện chia sẻ niềm vui cùng đất nước, nhất là trong mùa Tết vào tháng 2, như: đêm Tết “Hòa bình” tổ chức ngày 3/2 tại Nhà hát Mutualité đầy kín chỗ ngồi, Tết tại Choisy-Le-Roi ngày 4/2, Tết tại Verrrières-Le-Buisson ngày 6/2, Tết tại phòng Pleyel ngày 24/2...[20]

Nhóm ủng hộ Việt Nam Cộng hòa

Sinh viên du học của Việt Nam Cộng hòa thì tập trung ở Paris, thành lập Tổng hội Sinh viên Việt Nam, hoạt động từ năm 1960. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa có cơ sở bán thức ăn số 80 đường Monge, quận V, cũng được gọi là Foyer Monge, thuộc tòa đại sứ quản lý cho các sinh viên tụ tập.[21] Tính đến đầu năm 1975 cộng đồng ở Pháp là cộng đồng người Việt lớn nhất ở hải ngoại.[22]

Sau năm 1975

Đợt người Việt đông nhất sang định cư ở Pháp là vào thập niên 1970-1980 với nạn thuyền nhân vượt biển. Chỉ riêng trong bốn năm 1975-1979, Pháp đón nhận 51.515 người tỵ nạn sang định cư, tức là quốc gia đứng thứ ba sau Hoa KỳÚc về số lượng tiếp nhận người tỵ nạn.[23] Trong khoảng thời gian từ 1975 đến 1989, Pháp đón nhận khoảng 150.000 người tị nạn, và theo một số nghiên cứu, số người tị nạn chiếm khoảng 80% cộng đồng người Pháp gốc Việt đầu thập niên 1990.[13]

Ngoài chính sách của chính phủ cho người tỵ nạn nhập cư, giới nhân sĩ Pháp như triết gia Jean-Paul Sartre, Michel Foucault, Raymond Aron còn tổ chức nhóm vận động "Un bateau pour le Vietnam" ("Một con tàu cho Việt Nam") kêu gọi gia tăng số người tỵ nạn nhập cảnh. Chính nhóm này cùng với Bernard Kouchner, sáng lập viên tổ chức Médecins Sans Frontières (Y sĩ không biên giới) đã tài trợ con tàu Ile-de Lumière ("Đảo Ánh Sáng") ra khơi cứu giúp người vượt biển. Chính giới Pháp như Jacques ChiracFrançois Mitterrand cũng bảo trợ một số gia đình người Việt tỵ nạn.[24]

Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, phong trào Việt kiều được tập hợp dưới một ngôi nhà chung, chính thức lấy tên là Hội người Việt Nam tại Pháp (UGVF) với mục tiêu tập trung hỗ trợ đất nước. Điều này tưởng chừng là đơn giản, nhưng ở thời điểm Việt Nam bị cấm vận kinh tế từ Mỹ, thì mới thấy hết những gì Hội người Việt Nam tại Pháp đã làm để hỗ trợ đất nước: vận động cộng đồng gửi ngoại tệ về, mua lại sản phẩm của các công ty trong nước dù chất lượng chưa cao để giúp cho nền kinh tế Việt Nam được giữ vững, hỗ trợ tư vấn và trang thiết bị ở sân bay, trang bị cho các cơ sở sản xuất công-nông nghiệp các thiết bị hiện đại. Tại Pháp, UGVF cũng phát triển được hoạt động sinh hoạt thiếu nhi cho trẻ từ 3 đến 14 tuổi. Hiện nay mỗi chiều thứ Bảy, sinh hoạt này của Hội đã trở thành địa điểm quen thuộc của cộng đồng cho con em đến học tiếng Việt, học hát, học múa, học bắn cung, học võ... Thế hệ tương lai của cộng đồng ngày một đặt dấu chân của mình lên con đường chung và tiếp tục những gì thế hệ trước đã gây dựng[20].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Người Pháp gốc Việt http://vietluan.com.au/thong-tin-ve-mien-nam http://www.accessmylibrary.com/coms2/summary_0286-... http://books.google.com/books?id=7QEjPVyd9YMC&pg=P... http://www.google.com/books?id=EpuLWVqCC1AC http://www.google.com/url?sa=U&start=8&q=http://re... http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp... http://www.rue89.com/2009/12/07/20-000-travailleur... http://www.tuongdaibussy.com/ http://journal.tvfil78.com/article/journal-2008-07... http://vietluanonline.com/251111/Hanoidapphaquancu...